Hai lầu chuông trống đối xứng nhau hài hòa, bề thế, uy nghi, làm tăng vẻ đồ sộ lộng lẫy của Thiền viện, gợi lên một nét cổ kính uy nghiêm trong chốn lâm truyền, hứa hẹn vang vọng những âm thanh khi thong thả ngân nga, khi rộn ràng thúc giục.
Nhớ lại khi xưa ở Bắc Ninh, có câu phương ngôn nổi tiếng:
"Chuông chờ, trống Chõ, mõ Phù Lưu"
Nói lên tầm cỡ vượt mức bình thường của những đồ tự khí này, biểu hiện sức mạnh tỏa rộng của thiền đạo, sắc thái Phật giáo được quảng bá khắp miền Luy Lâu, xứ Kinh Bắc. So với những nơi trên, Vĩnh Phúc có thể tự hào về các tự khí chuông, trống mõ ở Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên. Những vật thể đó đã làm sống lại hình ảnh chuông làng Chờ, trống làng Chõ, mõ làng Giàu (Phù Lưu) một cách cụ thể sinh động bằng công nghệ hiện đại kết hợp với những kỹ thuật cổ truyền. Chúng ta hết sức vui mừng khi thấy Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên có một chiếc "mộc đạc" liền một khối, có đường kính tới 10 tay, gọt đẽo rất kỹ thuật, âm thanh vang động trầm hùng, không thua kém mõ Phù Lưu thời cổ, do đạo hữu Võ Nhu, thợ Nha Trang chế tác được đặt ở Điện tiền.
Lầu Trống (Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên)
Trong lầu trống, trên giá đựng gỗ đóng bề thế, vững chắc, đúng qui cách, chiếc trống tang liền, khoét bằng một khúc gỗ mít trên rừng cao nguyên Gia Rai, đường kính 1,5m do thợ Long Khánh nổi tiếng tay nghề, chuyên môn chế tác trống cho các Thiền viện thực hiện, biểu thị ý chí thống nhất toàn quốc từ Nam ra Bắc, từ Ngược xuống xuôi, từ rừng xuống biển, từ thành phố lên núi cao.
Chiếc trống là biểu tượng quần tụ và uy danh của Phật hội.
Lầu Chuông (Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên)
Về chiếc chuông đồng hun, hai đạo hữu nổi tiếng của lò đúc thành phố Huế là Nguyễn Văn Sở và Nguyễn Văn Tân, đã sử dụng 2 tấn đồng nấu chảy, đúc nên chiếc Đại Hồng Chung sắc huyền, treo trên lầu chuông Trúc lâm Thiền viện.
Chiếc chuông này có đường kình 1,4m cao 2m, khắc nhiều bài thơ của Trúc lâm đệ nhất tổ Hoa Yên viện, Điều Ngự đại thánh tổ Trần Khâm, của Thiền sư Thích Thanh Từ, thiền sư Viên Hoa và nhiều vị thượng tọa khác. Nét nổi bật là các bài thơ này đều khắc tiếng Việt, bằng tự mẫu La tinh; tín độ phật tử, thập phương chư vị đều có thể đọc được. Sáng kiến này biểu hiện một tư duy mới, một phong cách độc đáo, mang đậm đà bản sắc ViệtNam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tôn giáo, tín ngưỡng góp phần thúc đẩy bước tiến của xã hội.
Vòng quanh miệng chuông theo chiều úp xuống có một bài kệ chữ Hán 20 từ; tổng cộng 4 câu 5 chữ, bằng 20 chữ. Mỗi chữ khắc to 1,5cm2. Mở đầu mỗi câu là một chữ chỉ mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, được đóng khung vuông, hướng dẫn người xem theo thứ tự từng mùa mà lần lượt đọc thành bài:
Xuân - Nam vô u minh giáo
Hạ - Chủ cứu khổ bản tôn
THu - Cứu nạn minh đồ đại
Đông - Nguyện Địa Tạng Bồ Tát.
Tạm hiểu là:
Xuân - Lạy Phật đã giáo hóa vào cõi tâm
Hạ - Đạo ta chủ yếu cứu giúp chúng sinh vượt qua nỗi khổ
Thu - Vượt qua mọi hoạn nạn, mở sáng đến bước đường tương lai
Đông - Cầu xin đức Địa Tạng Bồ Tát khai tâm.
(Sưu tầm)