(BNP) - Nói đến Bắc Ninh người ta nghĩ ngay đến dân ca quan họ, một trong những làn điệu dân ca đằm thắm, mượt mà muốn nghe mãi không thôi. Những lời ca ấy mang đậm nét văn hóa tiêu biểu của người dân Kinh Bắc được biết đến là “đặc sản” của quê hương.
Nằm dọc hai bên bờ sông Cầu cách thủ đô Hà Nội về phía Bắc khoảng 30km, các làng quan họ quy tụ gần nhau trong một không gian với diện tích khoảng gần 60km2. Trải qua bao thăng trầm lịch sử những câu ca quan họ vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Giống như một món ăn thì đều phải có nguyên liệu và cách chế biến làm sao để người thưởng thức cảm nhận đươc cái ngon, cái hương vị riêng của mỗi món ăn. Như một món ăn tinh thần, dân ca quan họ là hát đối đáp nam nữ. Họ hát vào mùa xuân, mùa thu khi có lễ hội hay khi có bạn bè. Một cặp nữ của làng này hát với một cặp nam của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và đối giọng. Cặp hát phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng hát của hai người phải hợp thành một giọng. Thể hiện sự gắn bó tình nghĩa giữa các “liền anh” và “liền chị”
Dân ca quan họ có các hình thức: hát thờ, hát hội, hát thi lấy giải, hát canh với 213 giọng khác nhau và hơn 400 bài ca. Trong đó, lời một bài ca có hai phần: lời chính và lời phụ. Lời chính là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca, lời phụ gồm tất cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi như “ i hi, ư hư, a ha …”
Khi hát họ sử dụng những thể thơ và ca dao nhất định của người Việt, phần lớn là thể lục bát, lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp. Lời các bài ca quan họ đều là những câu thơ, ca dao được trau chuốt, từ ngữ trong sáng, mẫu mực. Nội dung các bài ca thể hiện các trạng thái tình cảm của con người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, sự vui mừng khi gặp lại của những người yêu nhau. Có 4 kỹ thuật hát quan họ là: vang, rền, nền, nảy. Hát quan họ không chỉ đòi hỏi hát tròn vành, rõ chữ, mượt mà, duyên dáng bằng nhiều kỹ thuật như: rung, ngân, luyến, láy mà còn phải hát nảy hạt.
Trong trang phục quan họ có sự phân biệt: Trang phục của người nữ quan họ gồm nón ba tầm hoặc nón thúng quai thao, khăn vấn tóc (khăn vấn và khăn mỏ quạ), yếm, áo, váy, thắt lưng. Trang phục của người nam quan họ gồm khăn xếp, ô lục soạn, áo gồm hai loại: áo cánh bên trong và áo dài 5 thân bên ngoài, quần, dép. Chiếc ô của liền anh, cái nón của liền chị quan họ là biểu tượng chứa đựng tín ngưỡng cổ xưa của người Việt về thế giới tự nhiên: thờ linga, yoni. Cách xưng hô trong hát quan họ cũng riêng biệt “anh hai, chị hai; anh ba, chị ba; anh tư, chị tư…”.
Người Việt Nam nói chung, người Bắc Ninh nói riêng dù có đi bốn phương trời họ vẫn nhớ về mảnh đất nặng tình người nơi đây. Những câu hát thể hiện sự hiếu khách của làn ca quan họ để lại trong mỗi người nghe một cảm giác nhẹ nhàng, bâng khuâng lưu luyến. Khiến người ta nhớ đến anh hai; chị hai, nhớ chiếc nón quai thao, nhớ dòng sông quan họ đầy tình người, nhớ miếng trầu cánh phượng, cánh quế mặn mà đỏ thắm mang nét đặc trưng riêng của miền quê quan họ.